dân số thế giới tăng nhanh đã
dân số thế giới tại thời điểm mình ghi câu trả lời này là 7,607,229,526 (khoảng 7.6 tỉ người), gia tăng dân số đồng nghĩa với việc cần nhiều nguồn tài nguyên hơn để sinh tồn, tự nhiên chỉ dự trữ 10% đất đai trên toàn cầu mà là những nơi mà con người có thể sinh sống được, cho nên áp lực dân số dồn lên chỉ những vùng đất này là rất lớn, điều này …
Có khá nhiều hòn đảo nổi ở nhiều nơi trên thế giới và hầu hết là do con người tạo ra từ lau sậy nổi tiếng như của người Uros trên hồ Titicaca, nhưng những hòn đảo nổi ở Manipur (Ấn Độ) là tự nhiên và lớn nhất cả về quy mô và dân số. là tự nhiên và lớn
Việc dân số thế giới tăng nhanh đã gia tăng áp lực lên hệ thống tài nguyên và môi trường; nhu cầu khai thác tài nguyên tăng cao để đáp ứng với số dân ngày càng tăng => Việc dân số thế giới tăng nhanh góp phần làm cho tài nguyên suy giảm và ô nhiễm môi trường .
Việc dân số thế giới tăng nhanh đã A. Thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế B. Làm cho tài nguyên suy giảm và ô nhiễm môi trường C. Thúc đẩy gió dục và y tế phát triển D. Làm c 2322458848009164 3 năm trước Việc dân số thế giới tăng nhanh đã A. Thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế B. Làm cho tài nguyên suy giảm và ô nhiễm môi trường
Top 10+ sang tên sổ đỏ trọn gói đất xen kẹt ở Quận Đống Đa mới nhất cập nhật mới nhất 2022 Tháng Mười. Cùng tham khảo Top 10+ sang tên sổ đỏ trọn gói đất xen
Cùng với đó, việc giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Quốc hội trong thời gian tới sẽ gặp nhiều thách thức do một số nguyên nhân như: các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục đẩy nhanh tiến trình thu hẹp nới lỏng chính sách tiền tệ, điều chỉnh tăng lãi suất nhanh và mạnh
27 Tháng Bảy, 2022. Thực trạng về chuyển đổi số trên thế giới nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đang có xu hướng thay đổi rất tích cực. Các con số cho thấy việc chuyển đổi kỹ thuật số là một trong những yếu tố then chốt để các doanh nghiệp bứt phá, đổi mới
Nguyên nhân chủ yếu là do dịch bệnh, đói kém và chiến tranh. Vào đầu Công nguyên, dân số thế giới chỉ có khoảng 300 triệu người, đến thế kỉ XVI mới tăng gấp đôi. Năm 1804, dân số thế giới là 1 tỉ người, thế mà năm 2001 đã lên đến 6,16 tỉ người ; đó là nhờ những tiến bộ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và y tế. Mục lục môn Địa 7 Dân số
soraquamarc1985. Những con số đáng chú ý Báo cáo của LHQ cho hay, kể từ giữa thế kỷ 20, thế giới đã trải qua sự gia tăng dân số chưa từng có. Dân số thế giới đã tăng hơn gấp ba lần trong giai đoạn từ năm 1950 đến năm 2020. Tốc độ tăng trưởng dân số thế giới đạt mức cao nhất trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến năm 1970, khi số lượng người trên thế giới tăng trung bình 2,1% mỗi năm. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2020, mặc dù dân số toàn cầu tăng với tốc độ trung bình hằng năm là 1,2%, 48 quốc gia hoặc khu vực ở châu Phi và châu Á vẫn có tốc độ tăng nhanh hơn ít nhất hai lần. Dân số thế giới được dự báo sẽ đạt mức cao nhất, khoảng 10,4 tỷ người trong những năm 2080 và duy trì ở mức đó đến năm 2100. Thế giới cần khoảng 12 năm để tăng từ bảy tỷ lên tám tỷ người, xấp xỉ thời gian để tăng từ sáu tỷ lên bảy tỷ người. Tuy nhiên, để tăng thêm một tỷ người tiếp theo thế giới dự kiến sẽ cần khoảng 14,5 năm. Một nửa trong số một tỷ người được bổ sung để dân số thế giới có thể đạt mốc tám tỷ là người châu Á. Châu Phi là châu lục có mức đóng góp lớn thứ hai với gần 400 triệu người. 10 quốc gia đã đóng góp hơn một nửa mức tăng trưởng dân số từ bảy tỷ đến tám tỷ người, đứng đầu là Ấn Độ, tiếp đó là Trung Quốc và Nigeria. Châu Phi và châu Á được dự báo vẫn là hai châu lục sẽ thúc đẩy sự gia tăng dân số thế giới cho đến khi đạt mốc chín tỷ người vào năm 2037. Tuổi thọ của người trưởng thành ở các nước phát triển đã tăng lên kể từ giữa thế kỷ 20. Lượng người có tuổi thọ trên 100 tuổi hiện nay là số lượng cao nhất từng ghi nhận trong lịch sử. Tuổi thọ trung bình toàn cầu đạt 72,8 tuổi năm 2019, tăng gần chín năm tuổi kể từ năm 1990. Tuy nhiên, năm 2021, tuổi thọ ở các nước kém phát triển nhất đã bị tụt hậu bảy năm tuổi so mức trung bình toàn cầu. Nói về dấu mốc dân số thế giới có thể đạt tám tỷ người vào cuối năm nay, Giám đốc điều hành Quỹ Dân số LHQ UNFPA, TS Natalia Kanem cho rằng Đây là câu chuyện thành công, không phải kịch bản về ngày tận thế. Bất chấp tất cả những thách thức, thế giới của chúng ta là thế giới mà tỷ lệ người được giáo dục và sống lành mạnh nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây trong lịch sử. Thế giới đã đạt những bước tiến lớn trong nỗ lực giảm nghèo và những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Dân số thế giới tăng chứng tỏ rằng một phần tuổi thọ tăng và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và bà mẹ giảm. Dân số tăng nhưng hàng triệu người vẫn phải sống trong cảnh nghèo đói. Ảnh THE CONVERSATION Những thách thức cần lời giải Theo Nghị quyết số 45/216 được thông qua vào tháng 12/1990, Đại hội đồng LHQ đã quyết định tổ chức Ngày Dân số thế giới vào ngày 11/7 hằng năm để nâng cao nhận thức về các vấn đề dân số, bao gồm cả mối quan hệ giữa dân số với môi trường và phát triển. Ngày 11/7/1990, hơn 90 quốc gia trên thế giới đồng loạt tổ chức các hoạt động kỷ niệm liên quan vấn đề dân số. “Thế giới tám tỷ người Để hướng tới một tương lai bền vững cho tất cả mọi người cần khai thác cơ hội và bảo đảm quyền, lựa chọn cho tất cả mọi người” là chủ đề UNFPA lựa chọn nhân Ngày Dân số thế giới năm 2022. TS Natalia Kanem cho rằng, việc chỉ tập trung hoàn toàn vào tổng dân số và tỷ lệ tăng trưởng là một thiếu sót và thường dẫn đến các biện pháp cưỡng chế, phản tác dụng, gây ảnh hưởng tới quyền con người. Giám đốc điều hành UNFPA nhấn mạnh Trên thực tế, con người chính là giải pháp, không phải là vấn đề. Kinh nghiệm trước đây cho thấy đầu tư vào con người, vào quyền và sự lựa chọn của con người, là con đường dẫn đến xã hội hòa bình, thịnh vượng và bền vững. Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres cho rằng, con số tám tỷ người là lời nhắc nhở về trách nhiệm chung trong việc quan tâm đến hành tinh cũng như để suy nghĩ về việc thế giới vẫn còn thiếu các cam kết, bởi dân số ngày càng gia tăng và già hóa cũng là một thách thức lớn về kinh tế, xã hội và môi trường, tác động tới vấn đề bảo đảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng đến các nỗ lực bảo đảm khả năng tiếp cận phổ cập đến chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà ở, vệ sinh, nước, thực phẩm, năng lượng… UNFPA cũng đánh giá, bên cạnh các thành tựu, những thách thức mà nhân loại phải đối mặt là hết sức cấp bách, có thể ảnh hưởng tới nhiều thế hệ. Các vấn đề này đang gây ra những tác động không đồng đều tới những nhóm dân số yếu thế và dễ bị tổn thương. Theo đó, hàng triệu người trên thế giới vẫn tiếp tục sống trong cảnh nghèo đói và thiếu dinh dưỡng, không được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và bảo trợ xã hội, không thể hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học và trung học có chất lượng; khoảng cách kỹ thuật số khiến nhiều phụ nữ và những người ở các nước đang phát triển “ngoại tuyến”; vaccine ngừa Covid-19 vẫn được phân phối không đồng đều. Những mối quan tâm và thách thức tương tự được nêu ra khi thế giới chạm mốc bảy tỷ người vẫn còn tồn tại hoặc thậm chí trở nên tồi tệ hơn như biến đổi khí hậu, bạo lực, phân biệt đối xử… Phụ nữ trên khắp thế giới chưa được thực hiện quyền cơ bản là đưa ra quyết định về cơ thể và tương lai của mình. Nhiều quốc gia chứng kiến sự tụt hậu đáng lo ngại về việc thực hiện quyền của phụ nữ. UNFPA chỉ ra rằng, tình trạng mang thai ngoài ý muốn là cuộc khủng hoảng đang bị bỏ quên. Theo các số liệu UNFPA thu thập được, gần một phần tư số phụ nữ không thể từ chối tình dục và không thể đưa ra quyết định về việc chăm sóc sức khỏe của chính bản thân. Mỗi năm, gần một nửa số trường hợp mang thai trên thế giới là ngoài ý muốn, tương đương 121 triệu trường hợp. Những phụ nữ này hoàn toàn không được quyết định việc mang thai hay không, trong khi đây là lựa chọn về sinh sản tác động lớn nhất đến cuộc sống của họ. Hơn 250 triệu phụ nữ có mong muốn tránh thai nhưng lại chưa sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn, hiện đại. Những thách thức trên đòi hỏi chính phủ các nước cần xây dựng tầm nhìn và hành động phù hợp. Các quốc gia có thể thực hiện chính sách dân số lấy người dân làm trung tâm, cùng với việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục làm cốt lõi. Khu vực tư nhân có thể phát triển các giải pháp sáng tạo, khai thác sức mạnh của sự đổi mới và công nghệ vì lợi ích toàn cầu. Theo Vụ Kinh tế và Xã hội của LHQ, mặc dù tốc độ tăng dân số toàn cầu sẽ tiếp tục giảm trong những thập niên tới, nhưng dân số thế giới có thể sẽ lớn hơn từ 20 đến 30% vào năm 2050 so năm 2020. Do vậy, cần có những ước tính chính xác hơn về xu hướng dân số và dự báo đáng tin cậy về những thay đổi trong tương lai, bao gồm cả quy mô dân số và sự phân bố theo độ tuổi, giới tính và vị trí địa lý, là cần thiết cho việc xây dựng và thực hiện chính sách là hướng dẫn để hỗ trợ các quốc gia đi theo con đường phát triển bền vững.
Câu hỏi Việc dân số thế giới tăng nhanh đã?A. Thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tếB. Làm cho tài nguyên suy giảm và ô nhiễm môi trườngC. Thúc đẩy gió dục và y tế phát triểnD. Làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng tăngĐáp án đúng dân số thế giới tăng nhanh đã làm cho tài nguyên suy giảm và ô nhiễm môi giải việc chọn đáp án đúng B là doDân số là tổng số dân sống của một nước. Quy mô dân số bị quy định bởi tỷ suất sinh, tỉ suất tử và sự di cư trong quá khứ và hiện tại. Trong các nền kinh tế cổ truyền, dân số ổn định mặc dù tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử cũng cao và không có các luồng di cư lớn. Khi các nước bước vào giai đoạn phát triển tốt hơn thì mức sống tăng nhanh, điều kiện sinh hoạt, y tế cũng phát triển dẫn tới tỷ suất tử giảm và dân số tăng nhanh. Đây là hiện tượng bùng nổ dân bùng nổ dân số có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng và mức sống. Tuy nhiên, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn có thể làm giảm, thậm chí loại trừ tác động tiêu số tăng quá nhanh và phân bố dân cư không hợp lí dẫn tới hậu quả– Suy giảm chất lượng môi trường sống suy giảm tài nguyên, ô nhiễm môi trường môi trường đất, nước, không khí,…– Suy giảm chất lượng cuộc sống về vật chất và tinh thần của từng cá nhân, hộ gia đình,… dẫn tới suy giảm kinh tế của cả quốc gia và thế giới.
Dân số tăng nhanh có thể gây ra nhiều vấn đề tiêu cực đáng báo động trên toàn cầu. Sau đây, hãy cùng tìm hiểu qua bài viết này nhé! 1. Dân số tăng nhanh là gì? Trước tiên, cần phải hiểu ý nghĩa của từ “dân số”. Dân số là một trong những chỉ số quan trọng nhất của một quốc gia, bao gồm tổng số người sống trong lãnh thổ đó. Quy mô dân số phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó bao gồm tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử và di cư. Trong những nền kinh tế cổ truyền, dân số thường ổn định dù tỷ lệ sinh và tử cao và không có các luồng di cư lớn. Tuy nhiên, khi các quốc gia bước vào giai đoạn phát triển tốt hơn, điều kiện sinh hoạt và y tế cải thiện, dẫn đến tỷ lệ tử giảm và tăng cường khả năng sống sót của trẻ sơ sinh. Điều này làm cho dân số tăng nhanh và gây ra hiện tượng bùng nổ dân số. Như vậy, dân số tăng nhanh được hiểu là việc dân số tăng lên một cách tự nhiên với tốc độ quá nhanh và thiếu kiểm soát. Tuy nhiên, sự tăng nhanh của dân số cũng có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng. Nó có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng và mức sống của một quốc gia, đặc biệt là trong những quốc gia đang phát triển. Nhưng nếu áp dụng các chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, nó có thể giảm thiểu tác động tiêu cực của sự bùng nổ dân số hoặc thậm chí loại bỏ nó hoàn toàn. Các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Đức và Nhật Bản đã chứng minh điều này bằng cách áp dụng các chiến lược phát triển kinh tế hiệu quả, đảm bảo rằng dân số tăng trưởng được kiểm soát và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. 2. Dân số tăng nhanh gây ra vấn đề gì? Dân số là một trong những chỉ số quan trọng nhất của một quốc gia và tốc độ tăng trưởng dân số có thể gây ra nhiều vấn đề cho sự phát triển của một quốc gia. Khi dân số tăng nhanh, sẽ có một số vấn đề đáng lo ngại cần phải được quan tâm và giải quyết. Vấn đề đầu tiên có thể đối mặt với một quốc gia khi dân số tăng nhanh là áp lực lên các nguồn tài nguyên và môi trường. Khi dân số tăng lên, sẽ có nhu cầu tăng về các nguồn tài nguyên, chẳng hạn như năng lượng, nước và thực phẩm. Việc gia tăng nhu cầu về thực phẩm, năng lượng và nguồn nước khiến cho việc khai thác tài nguyên trở nên khó khăn hơn, gây ra sự ô nhiễm và tác động đến môi trường sống. Sự tăng trưởng của các thành phố, đô thị và các khu vực đô thị mới cũng có thể gây ra sự tắc nghẽn giao thông và làm tăng lượng khí thải độc hại trong không khí. Việc khai thác tài nguyên và sử dụng đất đai để đáp ứng nhu cầu của dân số cũng có thể dẫn đến mất mát đa dạng sinh học và sự suy thoái của các hệ sinh thái. Điều này đặt áp lực lớn lên các nguồn tài nguyên và đưa ra thách thức đối với các nhà lãnh đạo quốc gia để tìm kiếm các giải pháp bền vững và hiệu quả để quản lý và phát triển các nguồn tài nguyên. Vấn đề thứ hai là tác động tiêu cực của tăng nhanh dân số đến nền kinh tế của một quốc gia. Với một dân số tăng nhanh, các yêu cầu về việc cung cấp các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế và an ninh xã hội sẽ tăng lên. Nếu không có sự phát triển kinh tế đáp ứng được nhu cầu tăng cường này, nó có thể dẫn đến sự kém hiệu quả của hệ thống dịch vụ cơ bản, khiến cho mức sống của người dân giảm đi và tạo ra những kẽ hở trong việc phát triển của quốc gia. Đồng thời, một trong những vấn đề chính là sự tăng nhu cầu về nhà ở, thực phẩm và các sản phẩm cần thiết khác. Việc đáp ứng nhu cầu này có thể dẫn đến sự gia tăng giá cả một cách mất kiểm soát, từ đó có thể khiến cho nền kinh tế và tài chính của một nước xuất hiện những tình trạng tiêu cực. Vấn đề thứ ba là sự gia tăng áp lực lên hạ tầng và vấn đề về không gian đô thị. Khi dân số tăng lên, sẽ có nhu cầu tăng về hạ tầng, chẳng hạn như đường, cầu, và hệ thống vận tải công cộng. Điều này đặt áp lực lớn lên hạ tầng và đưa ra thách thức đối với các nhà lãnh đạo quốc gia để tìm kiếm các giải pháp để phát triển và quản lý hạ tầng phù hợp. Ngoài ra, vấn đề về không gian đô thị cũng sẽ được đặt ra khi mà dân số tăng nhanh và sự phát triển của các siêu đô thị ngày càng nhanh chóng. Vấn đề thứ tư là sự tăng nhanh của dân số cũng có thể dẫn đến sự thay đổi trong khu vực lao động, tăng cường sự cạnh tranh trên thị trường lao động và có thể gây ra tình trạng thất nghiệp ở diện rộng. Với một lượng dân số đông đảo, vấn đề tệ nạn xã hội cũng gia tăng. Thiếu việc làm, nghèo đói, thiếu giáo dục và sự phân bố không đồng đều của tài nguyên có thể dẫn đến tình trạng tội phạm gia tăng. 3. Một số biện pháp khắc phục Dân số đang gia tăng với tốc độ chóng mặt trên toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Tình trạng này đem lại nhiều thách thức và tác động tiêu cực đến cuộc sống con người và môi trường sống. Việc khắc phục tình trạng gia tăng dân số đang trở thành một vấn đề cấp bách đối với toàn thế giới. Theo đó, có một số biện pháp có thể kể đến như sau Thứ nhất, thúc đẩy tăng cường phát triển kinh tế là một giải pháp hiệu quả để giảm tốc độ gia tăng dân số. Khi đất nước phát triển kinh tế, nền kinh tế sẽ phát triển, tạo ra nhiều việc làm và cải thiện mức sống của người dân. Điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu về sinh sản của người dân sẽ giảm dần. Khi mức sống được nâng cao, người dân sẽ có điều kiện tốt hơn để tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, giúp họ có được những kiến thức cần thiết để quản lý tốt việc sinh sản. Hơn nữa, phát triển kinh tế còn có thể giúp giảm bớt áp lực cho các gia đình khi đưa ra quyết định về sinh con. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các gia đình có điều kiện kinh tế kém, khi việc sinh con nhiều có thể ảnh hưởng đến khả năng trang trải chi phí sinh hoạt và giáo dục cho các con. Ngoài ra, phát triển kinh tế còn có thể mở rộng các lĩnh vực kinh tế khác nhau, giúp tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu hút các cơ quan đầu tư. Điều này có thể giúp người dân có điều kiện kinh tế tốt hơn, giúp họ có thể đưa ra quyết định thông thái về việc sinh con. Vì vậy, việc phát triển kinh tế đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề tăng dân số. Thứ hai, kiểm soát tỷ lệ sinh. Việc kiểm soát tỷ lệ sinh là một giải pháp khác để kiểm soát và giải quyết vấn đề bùng nổ dân số. Trong đó, một số quốc gia đã sử dụng các biện pháp mạnh để giảm tỷ lệ sinh như Trung Quốc. Chính sách chỉ được sinh một con đã được áp dụng tại Trung Quốc nhằm giảm tốc độ gia tăng dân số. Tuy nhiên, việc này cũng đưa ra nhiều tranh cãi về quyền con người và quan điểm về sự đa dạng dân tộc. Do đó, các biện pháp này cần được thảo luận kỹ lưỡng và đưa ra quyết định thích hợp. Thứ ba, tập trung vào giáo dục và tuyên truyền. Việc tập trung vào giáo dục và tuyên truyền về các hậu quả của vấn đề bùng nổ dân số là một giải pháp quan trọng. Đặc biệt, các chương trình giáo dục và tuyên truyền cần tập trung vào việc giáo dục những đối tượng còn trẻ tuổi nhất, bởi vì họ sẽ là tương lai của đất nước và có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vấn đề dân số. Các chương trình giáo dục và tuyên truyền cần tập trung vào việc tuyên truyền lợi ích của kế hoạch hóa gia đình và các phương pháp kiểm soát sinh sản. Việc tuyên truyền này sẽ giúp nâng cao nhận thức và giáo dục người dân về việc giữ gìn sức khỏe và quyền tự do của họ trong việc quyết định sinh con. Các chương trình này cũng cần tuyên truyền về các lợi ích của việc sinh vừa đủ con, bao gồm việc đảm bảo sức khỏe và giáo dục tốt cho con cái. Trên đây là một số thông tin liên quan đến vấn đề dân số tăng nhanh và hậu quả của vấn đề này. Hy vọng bài viết đã đem đến cho bạn đọc những thông tin hữu ích. Xin chân thành cảm ơn bạn đọc đã quan tâm theo dõi.
Dân số trên thế giới hiện nay khoảng hơn 90 tỷ người và có tốc độ gia tăng dân số khá ổn định. Tại Việt Nam tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên đang có xu hướng giảm, đặc biệt là trong những năm gần đây. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng dân số vẫn tăng nhanh và số dân vẫn tăng lên qua các năm. Vậy có bao giờ bạn thắc mắc vì sao tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm nhưng dân số vẫn tăng nhanh? Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những thắc mắc và đưa ra câu trả lời cho câu hỏi đang xem Dân số thế giới tăng nhanh từSơ lược về dân số Việt NamTrong đó có 47,88 triệu dân là nam giới chiếm và 48,32 triệu người là nữ giới chiếm trên tổng dân số. Cũng theo đó chúng ta có thể thấy sau 10 năm, kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người, tỷ lệ gia tăng dân số bình quân đạt 1,14%/năm và có xu hướng giảm nhẹ so với giai đoạn 10 năm trước 1,18%/năm.Kết quả thống kê cũng cho thấy Việt Nam là một quốc gia có mật độ dân số cao so với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực Đông Nam Á với mật độ dân số là 290 người/km vuông tăng 31 người/km vuông so với năm 2009. Trong đó, khu vực Hà Nội và có mật độ dân số cao nhất cả nước, tương ứng là người/km2 và người/km2. Điều này chứng tỏ tốc độ đô thị hoá diễn ra ở nước ta khá nhanh và rộng khắp tại các địa phương đã tác động đến sự gia tăng dân số ở khu vực thành cạnh đó việc phân bổ dân cư giữa các vùng kinh tế xã hội có sự khác biệt đáng kể, chủ yếu dân cư tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng với 22,5 triệu người, chiếm gần 23,4%; tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với khoảng 21%. Tây Nguyên và các vùng núi là nơi có ít dân cư sinh sống nhất chỉ chiếm dân đó dân số là người kinh và dân số là người thuộc các dân tộc thêm Đường Truyền Của Ánh Sáng Trong Không Khí Là Đường Nào ĐườngNhận xét về tỉ lệ gia tăng dân số tại Việt NamTheo thống kê những số liệu thu thập được về tỉ lệ gia tăng dân số Việt nam từ 1954 đến 2014 chúng ta có thể đưa ra những kết luận như sauGiai đoạn 1954 2014 dân số nước ta đã tăng liên tục và tăng nhanh, tăng khoảng triệu lệ gia tăng dân số có giảm qua các năm nhưng không ổn định giữa những thời kỳTrong giai đoạn 1954 1960 tỉ lệ gia tăng dân số ở mức cao nhất, vào khoảng đoạn 1960 2014 tỉ lệ gia tăng dân số có xu hướng giảm dần từ xuống còn vậy, chúng ta có thể thấy rằng vì sao tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm nhưng dân số vẫn tăng nhanh. Vậy tại sao trường hợp này lại xảy ra ở nước ta?Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở Việt Nam có xu hướng giảm nhưng dân số vẫn tăng nhanh đó là bởi các nguyên nhân tác động đến cơ cấu và sự gia tăng dân số. Thứ nhất nước ta là nước có dân số đông với quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản cao. Thứ hai tỉ lệ gia tăng dân số giảm nhưng vẫn là một nước có tỉ lệ gia tăng dân số cao trên thế giới, ước tính mỗi năm nước ta tăng thêm khoảng 1 triệu đó mặc dù tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm nhưng dân số của nước ta vẫn tăng nhanh. Đây là một cơ hội lớn và cũng đặt ra nhiều thách thức trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của nước nhà. Từ đó đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách cụ thể tác động trực tiếp vào sự gia tăng dân số đi đôi với phát triển nền kinh tế để đảm bảo toàn dân có chất lượng cuộc sống tốt, ngang bằng với các quốc gia đang phát triển trên thế thêm Top 7 Bài Đóng Vai Nguoi Chau Trong Bai Bep Lua, Đóng Vai Người Cháu Kể Lại Câu Chuyện Bếp LửaTrên đây là những thông tin về dân số và giải thích trực quan cho câu hỏi Vì sao tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm nhưng dân số vẫn tăng nhanh? Hy vọng bài viết đã cung cấp cho các bạn những thông tin hữu ích giúp các bạn có thêm những kiến thức hữu ích về cuộc sống. Chúc các bạn may mắn và thành công.
Dân số giảm kéo theo lực lượng lao động và thị trường tiêu dùng của Trung Quốc co lại, khiến nền kinh tế này càng khó vượt Mỹ. Số liệu giới chức Trung Quốc công bố hôm 17/1 cho thấy dân số nước này năm 2022 lần đầu đi xuống kể từ năm 1961. Theo đó, con số này giảm xuống 1,4 tỷ người. Tốc độ giảm mạnh hơn dự báo đánh dấu bước ngoặt với nước này, có khả năng tác động lớn đến nền kinh tế và vai trò công xưởng thế giới của mốc về dân số xảy ra khi Trung Quốc vẫn là nền kinh tế đang phát triển, có thu nhập trung bình. Các nhà kinh tế học cho rằng mục tiêu của giới chức Trung Quốc – vượt Mỹ thành nền kinh tế lớn nhất thế giới – giờ sẽ càng khó khăn hơn khi dân số giảm."Khả năng Trung Quốc vượt Mỹ giờ đã giảm một bậc", Roland Rajah – kinh tế trưởng tại Viện nghiên cứu Lowy Australia nhận định trên Wall Street tế toàn cầu đang ngày càng dựa vào lực lượng lao động nhà máy đông đảo của Trung Quốc để sản xuất hàng hóa. Người tiêu dùng nước này cũng là thị trường đang lên cho các hãng xe và hàng thời trang xa xỉ phương Tây. Vì thế, việc dân số suy giảm đồng nghĩa số người tiêu dùng giảm đi, đúng thời điểm Trung Quốc chịu sức ép thúc đẩy tăng trưởng bằng tiêu dùng, thay vì đầu tư và xuất khẩu. Người dân tại phố đi bộ ở Thượng Hải Trung Quốc tháng 5/2021. Ảnh Reuters Khả năng hồi phục tiêu dùng cũng sẽ chịu sức ép bởi thị trường lao động yếu và giá nhà giảm – kéo theo tài sản của các gia đình Trung Quốc giảm. Tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm 16-24 vẫn cao, với 16,7% trong tháng 12. Tăng trưởng thu nhập khả dụng có thể chậm lại, còn 4% mỗi năm trong 5 năm tới, giảm từ 8% trước đại dịch, theo David Wang – kinh tế trưởng tại Credit Suisse cho Quốc gần đây đã rút lại hàng loạt chính sách chống dịch ngặt nghèo vốn kìm hãm tăng trưởng năm 2022, để mở đường cho phục hồi kinh tế năm nay. Bước ngoặt này là một phần trong kế hoạch thúc đẩy nền kinh tế, trong đó có nới lỏng quy định về bất động sản và công Kinh đặt cược hoạt động kinh tế hồi phục mạnh khi giới chức ngày càng phát đi nhiều tín hiệu rằng tỷ lệ lây nhiễm đã đạt đỉnh. Một số cố vấn của chính phủ Trung Quốc cho rằng giới chức nhiều khả năng công bố mục tiêu tăng trưởng 5-5,5% cho năm 2023, tương đương năm ngoái. Hôm 17/1, Trung Quốc công bố GDP năm 2022 tăng 3% - mức tệ thứ nhì kể từ năm biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF đang diễn ra tại Davos Thụy Sĩ, Phó thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc đã gửi thông điệp trấn an đến các nhà đầu tư và lãnh đạo doanh nghiệp. Ông cho biết tăng trưởng của Trung Quốc sẽ quay về mức tiền đại dịch trong năm nay, khi nước này mở cửa trở một phiên thảo luận tại Davos với chủ đề "Chương tiếp theo của Trung Quốc", các diễn giả đều tỏ ra lạc quan. Lãnh đạo Sở giao dịch chứng khoán Hong Kong Nicolas Aguzin cho biết việc Trung Quốc đại lục mở cửa và bỏ chính sách Zero Covid là "chất xúc tác tích cực nhất" với các thị trường toàn cầu năm nay."Nếu Trung Quốc tăng trưởng ổn định trong năm 2023, khoảng 5% hoặc hơn, tăng trưởng toàn cầu sẽ được củng cố đáng kể", Kevin Rudd – CEO Asia Society cho nhiên, các biện pháp của Trung Quốc sẽ gặp phải hàng loạt thách thức. Đó là dân số già nhanh, năng suất giảm, mức nợ cao và bất bình đẳng xã hội tăng. Các nhà kinh tế học cho rằng những vấn đề này sẽ gây sức ép lên kinh tế Trung Quốc nhiều thập kỷ tới. Trong đó, dân số giảm có thể còn đe dọa kinh tế nhiều hơn là tăng trưởng nền kinh tế có thể tăng trưởng nếu có thêm lao động, hoặc năng suất lao động tăng. Tuy nhiên, lực lượng lao động của Trung Quốc – đã đạt đỉnh từ năm 2014 – và được dự báo giảm 0,2% mỗi năm cho đến 2030, theo báo cáo của S&P Global trưởng năng suất cũng đang chậm lại. Tốc độ này đạt trung bình 1,3% giai đoạn 2009 – 2019, giảm so với 2,7% thập kỷ trước đó, theo ước tính của tổ chức nghiên cứu Conference Board. "Trung Quốc có vẻ sẽ già trước khi giàu", Andrew Harris – nhà kinh tế tại Fathom Consulting nhận vậy, các nhà kinh tế học cho rằng vẫn có lý do để lạc quan. Trung Quốc có thể tận dụng tốt hơn nguồn lao động thành thị, đang làm việc dưới khả năng trong các doanh nghiệp nhà nước, cũng như các lao động ở nông cũng có thể bổ sung công nghệ, tự động hóa vào các nhà máy, để thay thế hoặc hỗ trợ lực lượng lao động đang co lại. Các tiến bộ về robot, trí tuệ nhân tạo và các lĩnh vực công nghệ cao khác có thể kéo năng suất lên đáng kể, Harris cho biết. Dù vậy, ông nói rằng không dám chắc các biện pháp này sẽ thành Quốc vẫn đang sử dụng công thức tăng trưởng cũ, là khuyến khích các địa phương và doanh nghiệp đi vay để đầu tư. Các nhà kinh tế học đã cảnh báo mô hình này không bền vững trong dài lệ nợ trên GDP của Trung Quốc đã lên cao trong đại dịch, do các chính quyền địa phương đi vay để cấp vốn dự án cơ sở hạ tầng và thúc đẩy kinh tế. Tính đến tháng 6/2022, tín dụng cho lĩnh vực phi tài chính đạt tỷ USD, tương đương gần 300% GDP, theo dữ liệu từ Ngân hàng Thanh toán Quốc tế BIS.Các chính sách của Trung Quốc trong đại dịch tập trung vào khía cạnh nguồn cung hơn là nhu cầu của nền kinh tế. Không như nhiều nước phương Tây, chính phủ Trung Quốc không hỗ trợ tiền cho các hộ gia đình. Phần lớn nỗ lực hỗ trợ là cho các hãng sản xuất."Các vấn đề hệ thống mà Trung Quốc gặp phải trước Covid-19 giờ vẫn tồn tại", George Magnus – nhà kinh tế học tại Đại học Oxford cho biết, "Một số còn trầm trọng hơn do đại dịch".Dù một số diễn giả tại Davos tỏ ra lạc quan, nhà đầu tư và lãnh đạo doanh nghiệp trong và ngoài Trung Quốc vẫn lo lắng về sự sẵn sàng của Bắc Kinh trong việc mạnh tay gỡ bỏ hạn chế với doanh nghiệp tư nhân. Phó thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc đã trấn an lo ngại này tại Davos. Ông khẳng định họ sẽ không quay về nền kinh tế kế Quốc cũng đang tìm cách tự chủ trong nhiều lĩnh vực chủ chốt. Nước này tập trung cấp vốn vay giá rẻ cho các ngành được ưu tiên, như chất bán dẫn, năng lượng tái tạo và dược phẩm. Dù vậy, các nhà kinh tế cho rằng các khoản chi này thường dành cho doanh nghiệp quốc doanh có hiệu suất làm việc thấp, khiến đột phá thực sự bị hạn Thu theo WSJ